Trong kỳ họp cuối năm, các đại biểu Quốc hội đã nỗ lực hết sức để thông qua Bộ luật Hình sự (sửa đổi) và Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) – hai bộ luật nền tảng cho việc tăng cường thể chế pháp quyền và tiếp cận công lý trong lĩnh vực hình sự.
Thực tế số lượng các vụ án oan sai chưa giảm, cùng với số phận của các nạn nhân điển hình như Nguyễn Thanh Chấn và Huỳnh Văn Nén, đang là những điểm đen đi vào lịch sử ngành tư pháp nước nhà.
Trước và sau khi hai bộ luật trên được thông qua, đã và đang diễn ra cuộc tranh luận quyết liệt giữa hai luồng quan điểm: một bên cho rằng cần phải bảo đảm quyền hạn của các cơ quan tố tụng như điều tra, kiểm sát và tòa án để tăng cường hiệu quả đấu tranh chống tội phạm; bên kia tha thiết rằng vô luận là chính quyền làm gì đi nữa nhưng cái người dân luôn luôn đòi hỏi là công lý và một nền tư pháp không oan sai!
Có gì mâu thuẫn ở đây không? Xét từ góc độ luật học, không nên và không thể mang vấn đề thuộc hai phạm trù khác nhau ra tranh luận. Bởi đấu tranh chống tội phạm chỉ là một trong những công việc hàng ngày của các cơ quan chấp pháp, trong khi thực thi và bảo đảm công lý mới là mục tiêu của cả hệ thống chính quyền và pháp quyền.
Và nếu đang là như thế thì để đáp lại những cố gắng hết mình của các đại biểu Quốc hội, một câu hỏi đặt ra: liệu những điều luật mới, cho dù có tiến bộ và hoàn thiện hơn, có đủ sức nhốt vào trong nó sự lạm quyền và tùy tiện, thói vô cảm và vô trách nhiệm, thậm chí cả cái tệ nạn đã thành câu ca bao đời của ông, cha chúng ta “nén bạc đâm toạc tờ giấy”… của một bộ phận những con người được nhân dân trao “quyền sinh, quyền sát”, quyền “cầm cân nảy mực” hay không?
Đối với những người dân lành, chúng ta biết rằng họ đã, đang và vẫn sẽ trông chờ và hy vọng lắm vào hệ thống công quyền và tư pháp, và đương nhiên cả những đạo luật và điều luật, bởi nếu không thì như bao đời, họ biết trông chờ vào đâu? Tuy nhiên, đối với chính chúng ta, những người trong ngành và trong nghề thì biết và hiểu rằng, những đạo luật và điều luật, suy cho cùng cũng chỉ là một thứ công cụ, hay nói một cách khác, một thanh kiếm sắc nhưng “chém” ai, cái gì và thế nào lại tùy thuộc hoàn toàn vào người cầm nó. Và bởi lẽ đời là thế nên mới sinh ra hệ thống tư pháp, với bộ máy và con người đạt chuẩn để có thể vận hành cỗ máy cho ra sản phẩm công lý.
Với suy ngẫm về những câu hỏi như vậy trong những ngày tiễn năm cũ 2015 và đón năm mới 2016, tôi đã mê mải xem một bộ phim được coi là thú vị bậc nhất và trở thành kinh điển của điện ảnh tư pháp Mỹ. Phim Mười hai người đàn ông giận giữ, sản xuất năm 1957, được chuyển thể từ vở kịch truyền hình cùng tên của Reginald Rose, do Sidney Lumet đạo diễn, kể về một bồi thẩm đoàn có 12 người đàn ông đang bàn thảo về tội trạng của một bị cáo. Tại Mỹ, trong hầu hết các phiên xử hình sự, bồi thẩm đoàn là người quyết định bị cáo có tội hay vô tội và phải đạt được sự nhất trí toàn bộ khi kết luận như vậy.
Hãy gìn giữ và để cho lòng trắc ẩn của mình luôn luôn hiện hữu, thức tỉnh và lên tiếng đúng lúc, khi ta được trao quyền quyết định về số phận một con người. |
Câu chuyện bắt đầu ở một tòa án ở New York, nơi một thanh niên 18 tuổi lớn lên và sống ở một khu ổ chuột đang bị xét xử vì tội đâm chết người cha. Đến lúc bồi thẩm đoàn phải đưa phán quyết, quan tòa lưu ý rằng nếu tất cả bồi thẩm viên không có nghi ngờ một cách hợp lý nào về những chứng cứ buộc tội và trên cơ sở đó đồng tình kết tội, bị cáo sẽ phải chịu hình phạt tử hình.
Vì đã tham dự phiên tòa và nắm được toàn bộ diễn biến, các bồi thẩm viên dường như đã ngầm định rằng cậu thanh niên đó, một kẻ hư hỏng và sống bụi đời, là có tội, đồng thời chờ đợi phiên họp diễn ra nhanh chóng để sau đó, ai về nhà ấy trong một buổi chiều oi bức, và có người còn đang có vé để đến ngay sân vận động xem một trận bóng chày vô cùng hấp dẫn. Tuy nhiên, khi chủ tọa tiến hành bỏ phiếu công khai, tất cả đều giơ tay đồng ý kết tội bị cáo, trừ một người. Điều này không chỉ làm sửng sốt mà còn gây bất bình cho 11 người kia. Được yêu cầu giải thích, ông ta chỉ nói rằng, mặc dù không có lý lẽ để nói cậu bé vô tội, nhưng vì đây là một việc hệ trọng liên quan đến sống chết của một con người, cho nên không thể đưa ra phán quyết ngay mà không cần bàn thảo. Chỉ với cách nghĩ đơn giản như vậy, vị bồi thẩm đó đã thuyết phục và khích lệ mọi người cùng phân tích, mổ xẻ sự việc lại từ đầu, và cuối cùng, sau hơn 2 giờ đồng hồ đã cùng nhau đi đến kết luận rằng những chứng cứ đưa ra tại phiên toàn hoàn toàn chưa thuyết phục một cách chắc chắn rằng chàng thanh niên đã phạm tội giết cha. Và với phán quyết của bồi thẩm đoàn như vậy, theo pháp luật Mỹ, thẩm phán phải quyết định bị cáo vô tội và được tha bổng…
Tôi cứ trăn trở mãi khi xem xong bộ phim này với các câu hỏi tại sao và tại sao…
Tại sao pháp luật Mỹ lại để cho một bồi thẩm đoàn gồm những người thuộc đủ các thành phần và không chuyên nghiệp, tức không có kiến thức pháp luật và không được biết về cả nội dung vụ việc trước khi tham dự phiên tòa, được quyền đưa ra một quyết định quan trọng đến như vậy? Phải chăng bởi vì các nhà kiến tạo nền tư pháp Mỹ đã quan niệm rằng công lý không nên là một sản phẩm của một bộ máy chuyên nghiệp và có thể quan liêu hóa với thời gian. Thay vào đó, nó chính là các ý niệm và giá trị rất thật được tạo ra bởi con người, cộng đồng và xã hội. Hệ thống tư pháp có thể tạo nên các quy trình và thủ tục rất hoàn thiện và tinh vi, để truy xét và khởi tố một kẻ tình nghi phạm tội, nhưng về cốt lõi, nó không thay thế được niềm tin của chính con người vào các giá trị nhân văn phổ quát, khi đưa ra những phán quyết về sinh mạng của đồng loại.
Tại sao thẩm phán của phiên tòa lại lưu ý và nhấn mạnh với các bồi thẩm viên rằng các ngài chỉ được quyết định có tội dựa trên sự không có nghi ngờ hợp lý nào về chứng cứ buộc tội? Phải chăng đó chính là sự tuân thủ một cách khắt khe với nguyên tắc suy đoán vô tội, vốn là linh hồn của luật tố tụng hình sự, như theo Tu chính án thứ 14 của Hiến pháp Mỹ và điều 31 của Hiến pháp (sửa đổi năm 2013) của Việt Nam (“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”).
Cuối cùng, và có lẽ là điều tôi tâm đắc nhất trong bộ phim này, đó là chỉ có một người và cũng chỉ cần một người thôi, với một tiếng nói, dù nhỏ nhoi và chưa đủ tự tin, nhưng được cất lên một cách trung thực, giữa một đám đông đang sốt ruột làm cho xong công việc được giao của mình và giận dữ về bất cứ sự cản trở nào, thì công lý đã có cơ hội hiện diện.
Người duy nhất ấy nói rằng: hãy khoan, chưa nên quyết định vội khi chưa bàn thảo, về sự sống và cái chết của một con người, cho dù kẻ đó có thể bị coi là tầm thường, thậm chí là kẻ đáng ghét và đáng khinh, và kể cả khi theo các quy trình tố tụng thông thường của hệ thống tư pháp, kẻ đó dường như đã được coi là có tội.
Phải chăng, đó chính là tiếng nói của lương tri, cất lên từ lòng trắc ẩn của con người, và bởi còn có lòng trắc ẩn đó, công lý đã được cứu rỗi và thực thi.
Vậy, nên ở thời điểm năm mới và chờ đợi thực thi Bộ luật Tố tụng hình sự mới sửa đổi nói trên, tôi, một chuyên gia pháp luật, xin được gửi gắm điều tâm huyết này: mỗi chúng ta, nếu đứng trên cương vị một điều tra viên, một kiểm sát viên hay thẩm phán, và thậm chí cả người bình thường nữa, hãy gìn giữ và để cho lòng trắc ẩn của mình luôn luôn hiện hữu, thức tỉnh và lên tiếng đúng lúc, khi ta được trao quyền quyết định về số phận một con người. Bởi nếu không, các đạo luật và điều luật sẽ chỉ còn là những trang giấy và dòng chữ thật đẹp. Như thế, chúng ta đã cùng nhau hiểu rằng: công lý đến từ đâu.
Luật sư Nguyễn Tiến Lập, bài viết trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 1/1/2016
Link bài viết gốc: http://www.thesaigontimes.vn/140480/Cong-ly-den-tu-dau.html