Ngày mai, 21.7.2011, kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khoá XIII sẽ khai mạc. Tại kỳ họp này, Quốc hội sẽ thông qua nghị quyết về chủ trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập uỷ ban sửa đổi Hiến pháp. Vấn đề sửa đổi Hiến pháp thu hút sự quan tâm, đóng góp ý kiến của nhiều người. Sài Gòn Tiếp Thị xin giới thiệu bài viết của luật sư Nguyễn Tiến Lập.
Hiến pháp không thể đơn giản là một đạo luật, bởi luật là do cơ quan lập pháp làm ra, tức sản phẩm của bộ máy nhà nước, theo đó, nhà nước (thông qua nghị viện hay quốc hội) có thể thay đổi nó. Hiến pháp không như vậy, nó là khế ước tinh thần và pháp lý của toàn xã hội.
Đang có một sự bàn luận sôi nổi trong giới học thuật về sửa Hiến pháp. Với tư cách là một người làm nghề luật, tôi cũng rất quan tâm, tuy nhiên tự hỏi: sửa Hiến pháp, đó là sự kiện “trọng đại” hay “bình thường”?
Ngẫm nghĩ, câu hỏi đó không dễ trả lời. Ở nhiều quốc gia, việc sửa đổi hiến pháp có ý nghĩa rất trọng đại, có khi phải trả giá bằng cả một cuộc cách mạng. Bởi vậy, người ta rất ít khi sửa đổi hiến pháp, và chỉ tiến hành khi đại đa số người dân thấy bức thiết phải làm điều đó.
Ở nước ta, Hiến pháp đã được sửa nhiều lần, trung bình khoảng 15 năm lại sửa. Và như vậy, hầu như nó đã trở thành việc bình thường. Điều này, đối chiếu với thông lệ chung, có gợi cho chúng ta điều gì không?
Trước hết, hãy quan niệm về hiến pháp
Tôi nhớ các nhà luật học Xô Viết trước đây đã coi Hiến pháp Liên Xô là một cương lĩnh chính trị hay một văn bản có tính chất như vậy. Nhận thức đó đã từng trở thành một học thuyết về hiến pháp. Tại sao như vậy? Bởi đọc hiến pháp người ta thấy cả một bức tranh đẹp đẽ mô tả tổng thể xã hội và đất nước, bao gồm cái đã có, đang có và cả cái sẽ có trong tương lai. Thêm nữa, và quan trọng hơn, hiến pháp được ban hành trên cơ sở cương lĩnh chính trị hoặc các nghị quyết của Đảng về đường lối, chiến lược xây dựng đất nước. Vậy, hiến pháp là “nghị quyết” hay “luật”? Câu trả lời là “cả hai”, vì nội dung của nó giống với “nghị quyết” nhưng gọi tên là “hiến pháp” để có hiệu lực như “luật”. Bởi rằng, “nghị quyết” chỉ có thể áp dụng trong phạm vi một tổ chức, còn “luật” thì có hiệu lực đối với toàn xã hội.
Hiến pháp của nước ta có được làm theo xu hướng như vậy không, khi mà đọc nó chúng ta dường như cũng thấy tất cả, từ mô hình tổ chức quyền lực nhà nước cho tới các vấn đề cụ thể như quyền “tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp” hay “sinh đẻ và kế hoạch hoá gia đình”?
Suy xét, tôi vẫn cho rằng hiến pháp không thể là “cương lĩnh”, nhưng cũng không đơn giản là “luật” (dù là “luật cơ bản” như nhiều người muốn đề cao), mà hơn thế. Về bản chất, hiến pháp chính là “khế ước xã hội”. Nó là thoả thuận và cam kết của mọi người dân với nhau và với nhà cầm quyền của một quốc gia về trạng thái, bản chất và sự phát triển chính trị của quốc gia đó gắn với một giai đoạn lịch sử có tính thời đại. Hãy đọc một số hiến pháp của các quốc gia. Hiến pháp Mỹ, vẻn vẹn với bảy điều, chỉ xoáy quanh câu chuyện kiểm soát quyền lực nhà nước, làm sao để quyền lực nhà nước không ngày càng phình to, lấn át và đè bẹp tự do của người dân, bằng cách các cơ quan nhà nước tự giám sát và kiềm chế lẫn nhau. Hiến pháp CHLB Đức tập trung khẳng định các quyền cơ bản của người dân và thể chế dân chủ, vốn là điều mà người Đức trước đó, do chủ quan, đã để mất bởi chế độ phátxít Hitler. Còn Hiến pháp Nhật Bản, được xây dựng sau Thế chiến thứ hai, thể hiện cam kết hùng hồn của người dân Nhật Bản về xây dựng một nước Nhật yêu chuộng hoà bình và không quân phiệt.
Nếu theo lý thuyết “Hiến pháp của chúng ta tự sửa” (cho tương thích với thực tiễn đời sống và mặt bằng pháp luật hiện hành) thì sẽ vấp phải một thực tế là người dân sẽ dần dần quên sự tồn tại của Hiến pháp mà chỉ còn chú ý đến các văn bản pháp lý thi hành hàng ngày. |
Tóm lại, hiến pháp như một “áng linh hồn” cần ghi nhận được những điều gì mà người dân đau đáu nhất. Sau nhiều thế kỷ phát triển chín muồi của chế độ quân chủ, người dân Anh không còn “đau đáu” vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước mà hội tụ niềm tin vào đức vua hay nữ hoàng, do đó, họ không cần một hiến pháp viết thành văn. Nhưng không vì thế mà nước Anh bớt đi sự văn minh và dân chủ.
Hiến pháp không thể đơn giản là một đạo luật, bởi luật là do cơ quan lập pháp làm ra, tức sản phẩm của bộ máy nhà nước, theo đó, nhà nước (thông qua nghị viện hay quốc hội) có thể thay đổi nó. Hiến pháp không như vậy, nó là khế ước tinh thần và pháp lý của toàn xã hội, không ai có quyền thay đổi nó trừ khi đạt được thống nhất ý chí của đa số người dân hoặc bằng một cuộc cách mạng. Hiến pháp đứng trên các đạo luật bởi nó chế ước cả nhà nước và không ai được phép vượt qua nó.
Để có một Hiến pháp có thể tồn tại lâu dài
Có một nguyên lý chung là luật được làm ra như thế nào thì sửa nó như thế. Đối với Hiến pháp, phải chăng cũng như vậy? Tôi còn nhớ luật gia Phùng Văn Tửu, nguyên phó chủ tịch Quốc hội, lúc sinh thời có nói vào những năm 80 (thế kỷ trước) rằng “Hiến pháp của chúng ta tự sửa”. Có nghĩa rằng Hiến pháp của chúng ta quy định rất nhiều điều mà không thể thực hiện được, vì vậy, một cách tự nhiên do nhu cầu thực tiễn, các luật, pháp lệnh hay thậm chí nghị định đã phải điều chỉnh nó “cho phù hợp”. Lâu dần, đến một lúc nào nào đó, ta “tổng kết thực hiện” và sửa Hiến pháp cho tương thích với thực tiễn đời sống và mặt bằng pháp luật hiện hành. Nếu theo lý thuyết “Hiến pháp của chúng ta tự sửa” (cho tương thích với thực tiễn đời sống và mặt bằng pháp luật hiện hành) thì sẽ vấp phải một thực tế là người dân dần dần quên sự tồn tại của Hiến pháp mà chỉ còn chú ý đến các văn bản pháp lý thi hành hàng ngày.
Có người có trọng trách cho rằng hãy sửa Hiến pháp sao cho nó có thể tồn tại lâu dài hơn, tránh “sửa đi, sửa lại”. Liệu rằng điều kiện thực tế đã chín muồi để đạt được điều này hay chưa còn là câu chuyện phải bàn, tuy nhiên, theo tôi, vẫn có một lối đi tới mục đích đó nếu cùng nhau xác lập và thống nhất các nguyên lý sau đây về Hiến pháp:
Thứ nhất, Hiến pháp không cần và không nên quy định những điều cụ thể thuộc phạm vi của các luật đơn hành. Đọc Hiến pháp năm 1992, chúng ta thấy sự trùng lắp như vậy khá nhiều, chẳng hạn giữa Hiến pháp với bộ luật Dân sự, luật Đất đai, luật Doanh nghiệp nhà nước, hay thậm chí cả luật Thể dục thể thao và luật Du lịch.
Thứ hai, Hiến pháp không quy định những điều đã trở thành hiển nhiên cũng như những điều xa vời mà không thể đạt tới được. Hãy xem tại sao Hiến pháp Mỹ không hề nói tới các quyền cơ bản của công dân, vì tự do cá nhân đã trở thành giá trị hiển nhiên của xã hội Mỹ, nên hiến pháp chỉ cần quy định cơ chế bảo đảm nó mà thôi. Đối với nước ta, chẳng hạn, nếu cho rằng nguyên lý “Nhà nước của dân do dân và vì dân” và “Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần” là hiển nhiên thì không cần thiết quy định; đồng thời cũng nên xoá bỏ quy định về việc công dân có nhà ở và việc làm như một quyền cơ bản vì không thể thực thi được.
Thứ ba, Hiến pháp hãy chỉ tập trung quy định những điều gì mà một cách tự nhiên, cơ quan nhà nước dễ dàng vi phạm nhất và các cơ chế để người dân sử dụng hay đấu tranh nhằm bảo đảm tính thực thi của những gì đã nghi nhận trong Hiến pháp, đặc biệt liên quan đến các quyền cơ bản của họ. Cơ chế này ở các nước, chẳng hạn là nguyên tắc phân chia quyền lực và toà án Hiến pháp.
Một hiến pháp như vậy sẽ đơn giản, “gọn nhẹ” nhưng thiêng liêng, bởi chắt lọc những điều bản chất và cốt lõi, thể hiện các giá trị cao cả và niềm tin tối thượng của một quốc gia và xã hội.
Luật sư Nguyễn Tiến Lập
Sài Gòn Tiếp thị, 20/07/2011